Cục diện thế giới giai đoạn 2025 - 2045: Dự báo và những vấn đề đặt ra cho công tác nghiên cứu lý luận về đối ngoại của Đảng ta

Thứ ba - 30/12/2025 01:54
Dự báo cục diện thế giới, khu vực trong vòng 10 - 20 năm tới sẽ tiếp tục có nhiều biến chuyển sâu sắc, mang tính cấu trúc, lâu dài, cùng với nhiều yếu tố khó đoán định, tạo ra những cơ hội và thách thức đan xen phức tạp, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của Việt Nam. Do đó, công tác đối ngoại nói chung và lý luận về đối ngoại nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm xây dựng một chiến lược đối ngoại đúng đắn, kết hợp hiệu quả giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo dựng sức mạnh tổng hợp, tầm vóc và vị thế quốc tế mới của đất nước.


Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp các trưởng đoàn chính đảng các nước dự Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 _Ảnh: TTXVN
 
Thế giới đứng trước sự định hình của một trật tự mới
“Cục diện” là sự xuất hiện, tồn tại và tương tác đan xen của yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong mối quan hệ giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế trong một khoảng thời gian hoặc không gian chiến lược nhất định. Nhìn chung, các trường phái nghiên cứu quốc tế có quan điểm khá gần nhau khi cho rằng, cục diện - “bức tranh” toàn cảnh về thế giới - phải phản ánh tương quan quyền lực, lợi ích và quan điểm của các quốc gia và luôn gắn với việc xây dựng, vận hành các thể chế, luật lệ quốc tế. Các trường phái nghiên cứu cũng nhất trí vai trò của các quốc gia trong bức tranh toàn cảnh đó không giống nhau, mà các cường quốc thường có vai trò và ảnh hưởng mang tính quyết định(1).
 
 
Cục diện thế giới mang tính cơ động, biến hóa và phản ánh những đặc điểm cơ bản, đặc thù nhất của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thế giới trong ngắn hạn. Sự vận động của cục diện thế giới sẽ góp phần định hình nên cấu trúc tương đối nhất quán của trật tự thế giới trong khoảng thời gian xa hơn.
Như vậy, “cục diện thế giới” là tất cả các đặc điểm, yếu tố hình thành, chi phối, ảnh hưởng đến nguyên tắc, chuẩn mực, luật lệ vận hành của quan hệ quốc tế trong một giai đoạn cụ thể, từ đó, tác động đến hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của các quốc gia". Các thành tố của cục diện thế giới gồm: (i) Các chủ thể chính là các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các cơ chế liên kết, diễn đàn đa phương, các tổ chức phi chính phủ, các công ty xuyên quốc gia, các phong trào chính trị, xã hội… (ii) Các nhân tố tác động gồm: tương quan so sánh lực lượng và quan hệ giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực, sự phát triển của khoa học - công nghệ và các xu thế an ninh phát triển lớn, chiều hướng diễn biến của các cuộc xung đột, điểm nóng lớn và các vấn đề toàn cầu; (iii) Các tính toán điều chỉnh hành vi và lợi ích của các quốc gia, nhất là các nước lớn, trong từng thời kỳ cụ thể.
Đánh giá về cục diện thế giới, Đại hội XIII của Đảng nhận định:“thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo”. Trong những năm qua, tình hình quốc tế và khu vực đang phản ánh đúng những nhận định, đánh giá chiến lược, sâu sắc của Đại hội XIII. Bên cạnh những xu thế, đặc điểm của giai đoạn trước, cục diện thế giới từ nay đến 2045 sẽ xuất hiện thêm một số điểm mới, rõ nét hơn, bao gồm sự hình thành của cục diện đa cực, đa trung tâm; môi trường chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội toàn cầu tiềm ẩn nguy cơ bất ổn và bất định gia tăng; tác động sâu rộng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; sự tiếp diễn gay gắt của các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống… Cục diện này được hình thành từ sự thay đổi trong cán cân quyền lực giữa các cường quốc, vai trò nổi lên của Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và các nước tầm trung, các tập đoàn xuyên quốc gia, sự phát triển đột phá của công nghệ và những chuyển biến mạnh mẽ về địa - chính trị - kinh tế. Có thể dự đoán đến giữa thế kỷ XXI, thế giới sẽ đứng trước sự định hình của một trật tự mới, được nhìn nhận qua các khía cạnh chính sau: 
Một là, thay đổi trong tương quan sức mạnh quyền lực và quan hệ giữa các nước lớn.
Về cơ bản, các nước lớn vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, song “đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn”. Từ nay đến năm 2045, tuy Mỹ vẫn là siêu cường mạnh nhất nhưng nhiều khả năng không còn khả năng chi phối, áp đảo hoàn toàn. Các trung tâm quyền lực khác (bao gồm: Trung Quốc, Nga, EU, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn lớn...) sẽ tiếp tục phát triển tạo nên các “cực” riêng hoặc hợp thành “bội cực” (nhất là BRICS, OECD, G7, G20) mang tính linh hoạt trong quan hệ quốc tế. Trong đó, các nước tầm trung có vai trò, tiếng nói ngày càng quan trọng bởi có thể quyết định cán cân quyền lực nghiêng về phía nào trong bối cảnh Mỹ và Trung Quốc đều không thể tạo ra các trạng thái bá quyền một cách tuyệt đối cả trên cấp độ toàn cầu và cấp độ khu vực.
Sự thay đổi về tương quan lực lượng, sức mạnh giữa các nước sẽ dẫn đến xu hướng điều chỉnh chính sách theo hướng gia tăng cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực, hoặc trực diện hoặc ủy nhiệm, ở cả các khu vực có ảnh hưởng truyền thống và cả khu vực ngoại vi. Theo đó, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế có chiều hướng gia tăng. Các nước lớn sẽ phải tính toán kỹ khi sử dụng công cụ chiến tranh, xung đột, để tránh tổn thất, tiêu hao nguồn lực. Thay vào đó đang có xu hướng lập nên ngày càng nhiều các tiêu chuẩn mới về kinh tế, thương mại, công nghệ để cản trở, kiềm chế, ngăn chặn đối thủ; riêng Mỹ, phương Tây còn sẵn sàng viện đến công cụ cấm vận, trừng phạt đơn phương để áp đặt, gây sức ép khi cần thiết.
Thực tiễn thay đổi về tương quan lực lượng, quan hệ giữa các nước lớn đến năm 2045 sẽ phản ánh sự chuyển dịch quyền lực toàn cầu từ các siêu cường truyền thống sang một thế giới đa cực hơn, nơi các quốc gia sẽ phải đối mặt ngày càng nhiều với những thách thức chung như mặt trái của toàn cầu hóa, tác động của biến đổi khí hậu và an ninh phi truyền thống, các vấn đề xã hội như già hóa dân số, di cư, bất bình đẳng, chênh lệch giàu nghèo. Các nước lớn sẽ không chỉ cạnh tranh về quân sự và kinh tế mà còn phải chủ động thích ứng, điều chỉnh chính sách trước các yêu cầu mới của trật tự thế giới, bao gồm yêu cầu hợp tác đa phương và duy trì ổn định toàn cầu. Trước cục diện thế giới biến động phức tạp và áp lực cạnh tranh ảnh hưởng giữa các siêu cường, các nước vừa và nhỏ nhiều khả năng sẽ theo đuổi chính sách đối ngoại linh hoạt hơn, chủ động đa dạng hóa quan hệ, giữ cầu với tất cả các nước lớn trong chiến lược “cân bằng”, “phòng ngự nước đôi”, gia tăng liên kết trong “thế giới phương Nam” (Global South) và đề cao vai trò của chủ nghĩa đa phương, luật pháp quốc tế để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hai là, chiều hướng vận động, thay đổi của các xu hướng lớn trong quản trị toàn cầu.
Thứ nhất, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển: Đứng trước những diễn biến nhanh, phức tạp, vượt khỏi dự báo thông thường trong những năm qua (xung đột Nga - Ukraine, Israel - Palestine, làn sóng đảo chính các nước ở châu Phi…), có ý kiến cho rằng cần xem xét, đánh giá lại nhận định “hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn”. Thậm chí, trong những năm tới, phải chăng thế giới “có thể nghiêng theo hướng bất ổn, bất định, bất an ngày càng nhiều và không loại trừ xảy ra các cuộc xung đột và chiến tranh mới, thậm chí trên diện rộng hơn”. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, có thể khẳng định, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là nguyện vọng chung thiết tha của các dân tộc trên thế giới, từ những mất mát đau thương hết sức nặng nề của chiến tranh, xung đột đối với các quốc gia, cộng đồng người dân cần hàng thập kỷ để khắc phục. Song để thực sự có được hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, sẽ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng dàn xếp, điều hòa mâu thuẫn, khác biệt giữa các quốc gia trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, khả năng hợp tác ngăn ngừa các nguyên nhân gốc rễ của chiến tranh, xung đột, như đói nghèo, bất bình đẳng, khả năng cải cách, điều phối quản trị toàn cầu và giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống xuyên biên giới.
Thứ hai, toàn cầu hóa và khu vực hóa. Một số dự báo cho rằng toàn cầu hoá trong vòng 20 năm tới (toàn cầu hóa 2.0) sẽ có xu hướng chững lại, tái sắp xếp (re-globalization) nhằm phù hợp với những điều kiện mới, trong đó có cả tác động nghịch chiều của xu hướng dân túy, dân tộc chủ nghĩa, bảo hộ thương mại, phi toàn cầu hóa (de-globalization) đang trỗi dậy ở một số quốc gia, khu vực. Toàn cầu hóa phiên bản mới là toàn cầu hóa điều chỉnh theo chiều sâu, đa liên kết, khu vực hóa và ưu tiên theo đối tác, khu vực địa lý gần gũi (friendshoring, nearshoring)(2). Xu thế chung nổi lên là các nước phải tăng cường tự chủ chiến lược, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, tự cường về kinh tế trước các cú sốc bên ngoài, thúc đẩy chuyển đổi số (đi sâu vào Chính phủ số, xã hội số và kinh tế số), chuyển đổi năng lượng (công nghệ các-bon thấp, phát thải thấp, phát triển năng lượng tái tạo), ứng dụng các công nghệ mới (hydro xanh, điện hạt nhân, điện gió ngoài khơi, nhà máy hạt nhân nổi, lò phản ứng hạt nhân mô-đun nhỏ - SMR…).
Một trong những rủi ro lớn nhất của kinh tế thế giới từ nay đến 2045 là hiện tượng phân tách/giảm thiểu rủi ro (Mỹ, EU gọi là “derisking”, Trung Quốc gọi là “khử phong hiểm”) cả về kinh tế, tài chính, thương mại và đặc biệt là công nghệ giữa Mỹ - phương Tây và Nga - Trung Quốc, kéo theo các hàng rào bảo hộ tinh vi sau biên giới và qua biên giới về tiêu chuẩn kỹ thuật, sở hữu trí tuệ, kiểm soát xuất khẩu tài nguyên chiến lược(3). Việc dịch chuyển chuỗi cung ứng và chiến lược “friendshoring” về dài hạn cho thấy các nước lớn đang ngày càng đặt trọng tâm vào an ninh quốc gia hơn là ưu tiên khai thác các chuỗi sản xuất với chi phí rẻ và hiệu quả hơn(4).
Thứ ba, sự phát triển đột phá của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và thậm chí sẽ là Cách mạng công nghiệp 5.0. Sự phát triển khoa học - công nghệ cao (nhất là AI, lượng tử, bán dẫn, dữ liệu lớn...) sẽ ngày càng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức với an ninh và phát triển của các quốc gia. Kinh tế thế giới sẽ bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn lực không giới hạn là công nghệ và đổi mới sáng tạo, thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào có giới hạn như tài nguyên thiên nhiên, vốn và lao động truyền thống(5). Không gian phát triển quốc gia mở rộng ra tất cả các chiều vật lý (vũ trụ, đất liền, đại dương, đáy biển, không gian mạng, Bắc Cực, Nam Cực). Việc sử dụng người máy, trí tuệ nhân tạo và tự động hóa gia tăng có thể khiến các công ty không cần đến nguồn lao động rẻ vốn là thế mạnh của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, khiến cho các chuỗi giá trị dịch chuyển về các nước “trung tâm” thay vì các nước “ngoại vi”(6). Các dịch vụ tài chính mới như ví điện tử, công nghệ tài chính, tài chính phi tập trung, tiền kỹ thuật số ngày càng lan rộng và trở nên phổ biến hơn, từng bước cạnh tranh với các phương thức thanh toán truyền thống. An ninh tài chính, tiền tệ toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro do vấn đề nợ công(7), lạm phát và cạnh tranh nước lớn và xu hướng phi đô-la hóa được đẩy mạnh(8). Không loại trừ kịch bản cực đoan khi mâu thuẫn nước lớn bị đẩy cao sẽ bùng phát thành chiến tranh tài chính, tiền tệ quốc tế.
Thứ tư, sự nổi lên của các trào lưu văn hóa - xã hội lớn của thế giới. Xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế, vai trò của các chủ thể phi nhà nước sẽ tiếp tục được đẩy mạnh, tác động đa chiều đến chính trị nội bộ và nền tảng xã hội của các quốc gia. Phong trào cộng sản quốc tế, vai trò của các đảng cộng sản, đảng cánh tả, các phong trào đấu tranh vì dân chủ, tiến bộ xã hội, nhân quyền, môi trường ở nhiều quốc gia tiếp tục được thúc đẩy. Xu hướng đảng cánh tả tiếp tục giành thắng lợi trong bầu cử và nắm quyền đang gia tăng, đặc biệt ở Mỹ La-tinh, trong khi khuynh hướng dân túy, dân tộc chủ nghĩa có chiều hướng thắng thế ở Mỹ, một số nước EU, tiềm ẩn hệ lụy lâu dài đối với tự do hóa thương mại và các chương trình nghị sự chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Nội trị các quốc gia ngày càng chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố bên ngoài như: các vấn đề mới về quản trị xã hội, các vấn đề tin giả, tin xấu độc, chủ nghĩa cực đoan trên các phương tiện truyền thông xã hội(9), các trào lưu xã hội như bình đẳng giới, bình đẳng xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, giới tính… Đồng thời, nhiều nước phương Tây tiếp tục áp đặt các giá trị, tiêu chuẩn về dân chủ, nhân quyền, lao động, môi trường đối với các quốc gia đang phát triển, như một điều kiện để thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư.
Thứ năm, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tiếp tục là đầu tàu tăng trưởng của kinh tế thế giới song vẫn sẽ là địa bàn trọng điểm của cạnh tranh nước lớn. Tình hình khu vực trong những thập niên tới sẽ bao hàm đầy đủ những đặc điểm quan trọng và xu thế lớn của thế giới. Bên cạnh đó, khu vực này sẽ có những đặc thù riêng trên bản đồ chính trị thế giới. Trước hết, đây sẽ là khu vực đóng vai trò như một trung tâm địa - chính trị, địa - kinh tế toàn cầu, song cũng là nơi có nhiều điểm nóng xung đột, tâm điểm của cạnh tranh nước lớn và chi phối hình thái cục diện thế giới trong tương lai. Theo IMF, châu Á - Thái Bình Dương hiện đóng góp khoảng 70% cho tăng trưởng thế giới. Đến năm 2050, dự kiến riêng khu vực châu Á sẽ chiếm tới 55% tổng sản lượng kinh tế thế giới, đóng góp 2/3 tăng trưởng của kinh tế toàn cầu. Nhiều nước lớn sẽ tiếp tục can dự mạnh mẽ, đẩy mạnh triển khai chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và các sáng kiến tại khu vực; cạnh tranh và hợp tác diễn ra sôi động trên các không gian, lĩnh vực mới (cáp ngầm, thăm dò đáy biển, vệ tinh...). Tình hình Biển Đông, eo biển Đài Loan (Trung Quốc), biển Hoa Đông, Myanmar nhiều khả năng sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, thu hút sự quan tâm cao của cộng đồng quốc tế. Không loại trừ phát sinh các kịch bản tích cực (tìm ra được giải pháp ổn định tình hình, giải quyết hòa bình các tranh chấp) lẫn tiêu cực (xảy ra sự cố mất ổn định do hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế). Các vấn đề an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, thiên tai, tội phạm xuyên quốc gia) sẽ tiếp diễn gay gắt.
ASEAN tiếp tục được các nước lớn coi trọng, duy trì vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực song sẽ tiếp tục chịu tác động lôi kéo của các nước lớn.
Tựu chung lại, 5 đặc điểm phân tích ở trên có sự vận động biến đổi, tương tác giao thoa lẫn nhau khiến cục diện thế giới luôn ở trạng thái “động” và phải theo dõi, nắm bắt với cách tiếp cận tổng thể, đa chiều, toàn diện, từ đó soi chiếu với lợi ích quốc gia - dân tộc để xác định chủ trương, cách thức ứng xử tối ưu về đối ngoại.
 

Lễ thượng cờ nhân dịp kỷ niệm 30 năm Việt Nam tham gia ASEAN và 58 năm Ngày thành lập ASEAN (8-8-1967 - 8-8-2025) _Ảnh: TTXVN
 
Những vấn đề đặt ra cho công tác lý luận về đối ngoại
Cục diện thế giới đang biến động sâu sắc, đa chiều  đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đan xen đối với môi trường chiến lược đối ngoại của các quốc gia. Để góp phần thực hiện thành công các mục tiêu an ninh, phát triển và vị thế đất nước trong kỷ nguyên vươn mình, đối ngoại và ngoại giao Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung công tác lý luận để thích ứng với xu thế của thời đại và mục tiêu, tầm nhìn phát triển của đất nước. Công tác lý luận về đối ngoại được phản ánh trên nhiều khía cạnh, chủ yếu trên 2 vấn đề chính sau: 
Thứ nhất, công tác lý luận về cục diện thế giới, khu vực và hoạch định chính sách đối ngoại của các quốc gia.
Đây là đòi hỏi cấp thiết, khách quan đối với công tác đối ngoại của mỗi quốc gia trong bối cảnh cục diện thế giới vẫn đang trong quá trình định hình, còn nhiều biến động và mang những diện mạo khác nhau trong từng lĩnh vực, không gian địa chiến lược. Đối với Việt Nam, là một đất nước có vị trí địa chiến lược xung yếu và hội nhập ngày càng sâu rộng, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng nhận diện, nhận thức sâu sát, đúng đắn về bản chất, cơ chế vận hành và những nhân tố tác động tới chiều hướng diễn biến của thế giới. Đây là một trong những bài học kinh nghiệm thành công giúp Đảng ta chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua các thác ghềnh lịch sử, lãnh đạo đất nước chưa bao giờ có “cơ đồ, tiềm lực và vị thế quốc tế như ngày nay”.
Từ nay đến năm 2045, từ sự vận động khách quan của lịch sử và điều chỉnh chính sách chủ quan của các nước, cục diện thế giới sẽ xuất hiện nhiều xu thế, đặc điểm mới, thậm chí chưa có trong tiền lệ. Tốc độ phản ứng, triển khai chính sách đối ngoại của các quốc gia sẽ nhanh chóng, rút ngắn hơn để kịp thích ứng với tình hình. Do đó, công tác lý luận về cục diện thế giới, khu vực và hoạch định chính sách đối ngoại của các nước cần “đi trước một bước” nhằm giúp định vị đất nước đúng dòng chảy của thời đại, tranh thủ tốt các cơ hội, hóa giải sớm các thách thức đặt ra trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Theo đó, công tác lý luận cần tập trung làm rõ những phương diện lớn sau: (i) Nhận diện về trật tự thế giới và hình thái cục diện thế giới đến năm 2045; (ii) Sự điều chỉnh chính sách của các cực, các trung tâm quyền lực trong xây dựng, thực thi luật lệ và những chủ thể chịu tác động; (iii) Các mâu thuẫn cơ bản và các xu thế khách quan của thế giới, tác động đến hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia; (iv) Hình thái, phương thức tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế; (v) Hệ thống các thể chế, cơ chế hợp tác đa phương và luật pháp quốc tế đóng vai trò nền tảng trong quan trị quốc gia, quản trị toàn cầu; (vi) Các điểm nóng an ninh, các vấn đề an ninh mới nổi là biểu hiện của xung đột trong thực thi luật lệ giữa các cực, các trung tâm quyền lực; (vii) Quá trình, phương thức, phạm vi và tác động của điều chỉnh chính sách đối ngoại của các quốc gia.
Thứ hai, công tác lý luận về đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam.
Cơ sở lý luận có tính nền tảng, xuyên suốt để hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam; ngoài ra các yếu tố như bản sắc, “sức mạnh mềm” dân tộc và truyền thống ngoại giao Việt Nam là những “chất liệu” quan trọng. Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập đến vấn đề xây dựng nền ngoại giao thời đại mới, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam; đây là vấn đề lớn cần tập trung làm rõ thêm nội hàm cả về lý luận và thực tiễn.
Tư duy về hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại từ nay đến năm 2045 chịu tác động chung của bối cảnh cục diện thế giới và khu vực. Những tác động đó cũng có mối quan hệ liên thông, chặt chẽ với việc điều chỉnh về mục tiêu, phương châm và quan điểm chỉ đạo của đối ngoại và ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn tới. Do đó, tựu chung lại có 3 vấn đề lớn về công tác lý luận về đối ngoại trong thời gian tới gồm: (i) Vấn đề định vị nền đối ngoại Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; (ii) Vấn đề hoàn thiện lý luận về hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới; (iii) Vấn đề phát triển nội hàm về “đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên”.
Vấn đề định vị nền đối ngoại Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Từ nay đến năm 2045 là giai đoạn thế giới và khu vực chứng kiến những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp, thậm chí khó lường, ngoài dự báo và sâu rộng chưa từng có. Do đó, sự hội tụ của những biến động mang tính hệ thống này đang tạo ra những thay đổi có tính cấu trúc kể từ sau Chiến tranh lạnh, đặt ra những vấn đề lớn về tư duy an ninh và phát triển của các nước. Bối cảnh mới đòi hỏi phải có tư duy lý luận mới về những vấn đề căn bản, cốt lõi như định vị Việt Nam trong cục diện thế giới mới, với tư cách là nước tầm trung, nước phát triển có thu nhập cao; vai trò, vị trí, khả năng đóng góp thực chất của đối ngoại tương xứng với vị thế, tầm vóc mới của đất nước; vai trò, chức năng của đối ngoại trong kiến tạo, duy trì và mở rộng không gian phát triển của đất nước.
Vấn đề hoàn thiện lý luận về hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới
Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, của Bộ Chính trị, về "Hội nhập quốc tế trong tình hình mới" nhấn mạnh chủ trương triển khai đồng bộ, toàn diện, sâu rộng, chất lượng và hiệu quả hơn công tác hội nhập quốc tế nhằm phát huy tiềm năng, thế và lực mới của đất nước, tạo động lực quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Xuất phát từ quá trình triển khai hội nhập cũng như định hướng thời gian tới, đặt ra một số vấn đề về lý luận hội nhập cần tiếp tục suy nghĩ, đào sâu nghiên cứu: (i) Vai trò và đóng góp của hội nhập quốc tế trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường; (ii) Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và triển khai hội nhập chất lượng cao, hội nhập thông minh, hội nhập kiến tạo; (iii) Phát huy hiệu quả của hội nhập quốc tế trong quá trình định hình luật chơi và các cơ chế, liên kết mới ở khu vực và toàn cầu, nâng cao năng lực, đóng góp của Việt Nam trong quản trị toàn cầu và nền văn minh nhân loại; (iv) Xử lý tác động, mặt trái của hội nhập đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Vấn đề phát triển nội hàm về “đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên”
Việc Đảng ta xác định nhiệm vụ “đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên” cho thấy sự phát triển tư duy của Đảng về việc xác định rõ hơn vai trò, vị trí của công tác đối ngoại trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian tới, yêu cầu cấp thiết là tiếp tục bổ sung, làm rõ về mặt lý luận về: (i) Mối quan hệ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực khác, đối ngoại với phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực quan trọng khác trong bối cảnh mới; (ii) Vai trò trọng yếu, thường xuyên của đối ngoại trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển của đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa theo Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII; đưa Việt Nam hội nhập với trào lưu phát triển của thế giới, tạo dựng và tranh thủ cơ hội, thu hút hiệu quả các điều kiện và nguồn lực bên ngoài, nhất là các nguồn lực có tính đột phá để tạo đà cho đất nước tăng tốc, bứt phá trong kỷ nguyên mới; củng cố và nâng cao hình ảnh, vị thế và uy tín của đất nước; (iii) Cơ chế, chính sách, nguồn lực để đối ngoại thực hiện các nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”.
Thế giới từ nay đến năm 2045 dự báo sẽ tiếp tục có những thay đổi sâu sắc, mang tính cấu trúc, dài hạn, tác động lớn, lâu dài đến hòa bình, an ninh, phát triển bền vững trên thế giới và tại các quốc gia. Nhiều nghiên cứu so sánh sự thay đổi này với những thời điểm xuất hiện các cuộc cách mạng trước đây. Thực tế, tuy bản chất của hệ thống quốc tế sẽ chưa thay đổi, chẳng hạn như lợi ích quốc gia - dân tộc vẫn là nền tảng quan trọng nhất cho việc hoạch định chính sách và chiến lược, hay không có một chính phủ toàn cầu đứng lên trên các quốc gia để quản trị hệ thống, nhưng rõ ràng môi trường bên ngoài các quốc gia đã, đang và sẽ có những điểm khác căn bản, nhất là: Cạnh tranh địa chính trị gia tăng; tri thức và công nghệ thành yếu tố quyết định sức mạnh tổng hợp quốc gia; các tình huống bất định, các cuộc khủng hoảng xảy ra với tần suất cao hơn, theo cách thức khó dự báo hơn; điều chỉnh chính sách của các quốc gia sẽ nhanh, mạnh hơn theo lợi ích quốc gia - dân tộc…
Lý luận về đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta dựa nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bản sắc văn hóa và ngoại giao truyền thống dân tộc, nhấn mạnh các giá trị vững bền, như hòa hiếu, coi trọng láng giềng, ngoại giao tâm công, đề cao chính nghĩa, độc lập, tự chủ, chủ nghĩa yêu nước, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, đoàn kết quốc tế, “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đây là những nền tảng căn cốt, thuận lợi để đối ngoại và ngoại giao Việt Nam vững vàng bản lĩnh, vững bước đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của đất nước 80 năm qua và các giai đoạn phát triển tiếp theo.
Do vậy, công tác lý luận về đối ngoại Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2045 cần kế thừa nền tảng lý luận đã có, đồng thời tiếp tục được nâng tầm, cập nhật và điều chỉnh cho phù hợp với xu thế của thời đại và những mục tiêu tầm nhìn chiến lược của đất nước trong kỷ nguyên mới./.

---------------------------
(1) Men Honghua: “The Rise of Great Powers and International Order” (tạm dịch: Sự trỗi dậy của các cường quốc và trật tự quốc tế), Studies of International Politics, No.2 (2004): 133-142
(2) Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, hiện có 197 FTA đã được ký kết và có hiệu lực (theo Ngân hàng Phát triển châu Á)
(3) Từ năm 2019 đến nay, thế giới đã có hơn 3.000 rào cản thương mại được thiết lập. Nhiều nước áp đặt các tiêu chuẩn mới (về phát thải các-bon, chống phá rừng của EU, thuế tối thiểu toàn cầu của OECD, kiểm soát hóa chất của Nhật Bản). Không chỉ các nước đang phát triển (như Mỹ, EU, Anh, Nhật Bản...) mà các nước đang phát triển tại châu Phi và Mỹ Latinh có trữ lượng khoáng sản thiết yếu, đất hiếm lớn (Nam Phi, Ê-cua-đo, Công-gô, Mê-hi-cô, Chi-lê...) cũng tăng cường quản lý, hạn chế xuất khẩu các tài nguyên này
(4) Xem: Báo cáo số 52 về những xu hướng toàn cầu giai đoạn 2021 - 2030 và ứng phó chính sách của Việt Nam (năm 2024), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(5) Xem: Báo cáo số 52 về những xu hướng toàn cầu giai đoạn 2021 - 2030 và ứng phó chính sách của Việt Nam (năm 2024), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(6) Xem: Báo cáo số 52 về những xu hướng toàn cầu giai đoạn 2021 - 2030 và ứng phó chính sách của Việt Nam (năm 2024), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(7) Nợ công toàn cầu hiện dự kiến sẽ đạt 336 nghìn tỷ USD, tương đương 238 %GDP toàn cầu năm 2030 (theo S&P Global)
(8) Các nước trong khối BRICS thảo luận về thúc đẩy các hình thức thanh toán bằng tiền tệ nội khối. Trung Quốc thúc đẩy giao thương với các quốc gia khác bằng đồng nội tệ, giảm nắm giữ trái phiếu Kho bạc Mỹ từ hơn 1.000 tỷ USD vào năm 2022 xuống còn hơn 850 tỷ USD tháng 1-2023 và 759 tỷ USD vào tháng 2-2024 -  ở mức thấp nhất trong 15 năm
(9) Theo thống kê của Liên minh Viễn thông thế giới (ITU) năm 2023, có 5,4 tỷ người sử dụng mạng internet (60% dân số toàn cầu), trong đó có 5 tỷ người có tài khoản mạng xã hội.
 

Tác giả bài viết: TS NGUYỄN MINH VŨ Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao. Nguồn: Tạp chí Cộng sản

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết
Thông báo - mời họp

07 TB/DU

Thông báo giới thiệu chức danh và chữ ký đồng chí Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy

02/06/2025

01-KH/ĐU

Kế hoạch thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2025

09/03/2025

02 MH/ĐU

Hội nghị BTV, BCH Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh

26/02/2025

1135-QĐ/TU

Quyết định Chỉ định Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh, nhiệm kỳ 2020 - 2025

04/03/2025

Lượt truy cập
  • Đang truy cập26
  • Hôm nay12,467
  • Tháng hiện tại298,975
  • Tổng lượt truy cập18,827,831
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây