Kết quả và bài học kinh nghiệm trong công tác tham mưu, thể chế hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng chính quyền 3 cấp ở nước ta

Thứ sáu - 21/11/2025 05:01
Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả được Đảng và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Chủ trương, đường lối của Đảng đã nhanh chóng được thể chế hóa, nhằm tinh gọn đầu mối chính quyền ở Trung ương, xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (tỉnh - xã), đồng thời hoàn thiện thể chế về cán bộ, công chức theo hướng liên thông, hiện đại.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm hỏi nhân dân đến làm thủ tục hành chính tại Trung tâm hành chính công xã Phúc Thịnh, thành phố Hà Nội _Ảnh: TTXVN
 
1- Kết quả hoàn thiện thể chế, chính sách về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Trung ương
 
Mô hình tổ chức chính quyền 4 cấp (trung ương - tỉnh - huyện - xã) đã vận hành gần 80 năm, góp phần quan trọng vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc và phát triển đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập quốc tế, mô hình đã bộc lộ một số hạn chế: cồng kềnh, chồng chéo, thiếu tính linh hoạt trong quản trị và chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phục vụ nhân dân. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận quan trọng(1) nhằm tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở cả Trung ương và địa phương, gắn với cải cách chế độ công vụ, công chức, đặt nền móng cho sự thay đổi mang tính cách mạng về tổ chức bộ máy: tinh gọn đầu mối ở Trung ương, xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (tỉnh - xã), đồng thời hoàn thiện thể chế về cán bộ, công chức theo hướng liên thông, hiện đại.
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 18-NQ/TW), Kết luận số 121-KL/TW, ngày 24-1-2025, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và các văn bản chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW (sau đây gọi tắt là Ban Chỉ đạo của Trung ương), Chính phủ đã ban hành 25 văn bản để chỉ đạo, điều hành, cụ thể hóa. Cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị theo chức năng, nhiệm vụ đã triển khai cụ thể bằng kế hoạch, phương án sắp xếp, thực hiện nghiêm văn bản định hướng, hướng dẫn, bảo đảm việc sắp xếp tổ chức bộ máy từ Trung ương đến địa phương được thực hiện thống nhất, đồng bộ đúng chủ trương, đường lối của Đảng.
Ban Chỉ đạo của Chính phủ về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW đã được thành lập để tập trung thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ. Ban Chỉ đạo của Chính phủ đã tổ chức 11 phiên họp để thảo luận, cho ý kiến về nội dung thuộc thẩm quyền và định hướng nhiều nội dung, chính sách quan trọng để triển khai thực hiện thống nhất ở cả trung ương và địa phương. Theo Kế hoạch số 141/KH-BCĐTKNQ18, ngày 6-12-2024, của Ban Chỉ đạo của Chính phủ tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, “về định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ”, thực hiện phân công của Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo, các Phó Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì, trực tiếp chỉ đạo bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện nhiệm vụ sáp nhập, hợp nhất và tiếp nhận chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy; đồng thời, chỉ đạo sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bên trong của bộ, ngành, cơ quan theo nội dung định hướng của Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Chỉ đạo của Chính phủ. Bộ, ngành, cơ quan, địa phương đã thành lập ban chỉ đạo để chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, đề xuất phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo yêu cầu; bộ, ngành, cơ quan thuộc diện sáp nhập, hợp nhất đã thành lập ban chỉ đạo chung để chỉ đạo việc xây dựng đề án hợp nhất, đề xuất phương án sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của bộ, ngành mới theo theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo của Chính phủ. Trên cơ sở văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW và sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, Chính phủ thường xuyên đôn đốc, hướng dẫn bộ, ngành, cơ quan, địa phương tổ chức thực hiện; đồng thời, theo dõi, giám sát, điều chỉnh kịp thời để bảo đảm việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng, theo phương án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Quốc hội đã thông qua 5 luật về tổ chức bộ máy nhà nước(2), 4 nghị quyết về việc sắp xếp tổ chức bộ máy của Quốc hội, Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV(3); 1 nghị quyết về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước(4) nhằm thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị. Đặc biệt, đối với Chính phủ, Quốc hội xem xét, thông qua Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025 tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV. Luật Tổ chức Chính phủ mới đã hoàn thiện nội dung mang tính nguyên tắc về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với chính quyền địa phương; làm cơ sở để cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị rà soát lại thẩm quyền đang quy định tại văn bản quy phạm pháp luật, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước, thực hiện cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Đây cũng là văn bản quan trọng, có giá trị pháp lý cao để bộ, ngành làm căn cứ rà soát, hoàn thiện quy định pháp luật chuyên ngành, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc, quy định tại Luật và yêu cầu đổi mới tư duy xây dựng pháp luật.
Để kịp thời triển khai nội dung của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025 và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quy định pháp luật hiện hành về phân quyền, phân cấp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 608/QĐ-TTg, ngày 15-3-2025, về “Ban hành Kế hoạch triển khai các nhiệm vụ, giải pháp về đẩy mạnh phân quyền, phân cấp theo quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương”. Chính phủ ban hành 23 nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của 22 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ(5). Các nghị định về tổ chức bộ máy và nghị định liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy, quản lý biên chế và tinh giản biên chế được ban hành đồng bộ, qua đó thể chế hóa chủ trương, quy định của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện hiệu quả cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

2- Kết quả hoàn thiện thể chế, chính sách về chính quyền địa phương 2 cấp

Đảng ta xác định rõ, việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, trong đó có chính quyền địa phương, phải theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và gần dân, sát dân hơn. Nghị quyết số 18-NQ/TW đã lần đầu tiên đặt ra yêu cầu nghiên cứu, thí điểm đổi mới mô hình chính quyền địa phương. Tiếp đó, Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 24-12-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, “về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã” và các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đề ra chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12-4-2025, của Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII của Đảng đã được ban hành, trong đó quyết định một số nội dung cụ thể về tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương: 1- Tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp: Cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp xã (xã, phường, đặc khu trực thuộc tỉnh, thành phố); kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện từ ngày 1-7-2025 sau khi Nghị quyết về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 của Quốc hội có hiệu lực thi hành; 2- Đồng ý số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh sau sáp nhập là 34 tỉnh, thành phố (28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc Trung ương); 3- Đồng ý sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã bảo đảm cả nước giảm khoảng 60 - 70% số lượng đơn vị hành chính cấp xã so với hiện nay.
Thực hiện nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là Nghị quyết số 60-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, cả nước tiến hành sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp. Bộ Nội vụ đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 74/NQ-CP, ngày 7-4-2025, về “Ban hành Kế hoạch thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp”. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã xây dựng đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, cấp tỉnh theo phân công của Chính phủ; tổ chức lấy ý kiến nhân dân về phương án sáp nhập, kết quả tỷ lệ đồng thuận trung bình rất cao (đạt 96,19%); 100% Hội đồng nhân dân các cấp ở các địa phương có liên quan đến sắp xếp đơn vị hành chính đều biểu quyết tán thành chủ trương sắp xếp tỉnh, thành phố gắn với địa phương mình. Trên cơ sở đề án của địa phương, việc tổ chức thẩm định và tổng hợp thành một đề án chung đã được triển khai để trình Chính phủ phê duyệt. Trên cơ sở đề xuất của Bộ Nội vụ, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 202/2025/QH15, ngày 12-6-2025, “Về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh”, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 34 nghị quyết về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của 34 tỉnh năm 2025. Theo đó, cả nước có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh (6 thành phố và 28 tỉnh); 3.321 đơn vị hành chính cấp xã (2.621 xã, 687 phường và 13 đặc khu); đưa số tỉnh, thành phố giảm từ 63 xuống 34; số đơn vị cấp xã giảm hơn 6.700 (tương đương giảm 66,9%, từ 10.035 đơn vị xuống còn khoảng 3.321 đơn vị), đạt mục tiêu Trung ương đề ra.
Bên cạnh việc sắp xếp đơn vị hành chính, Trung ương cũng yêu cầu sửa đổi, hoàn thiện ngay quy định pháp lý, bảo đảm cho bộ máy chính quyền địa phương mới đi vào vận hành nhanh chóng, thông suốt. Quá trình này phải được thực hiện khẩn trương, trên cơ sở rà soát và cân nhắc kỹ lưỡng để chuyển giao nhiệm vụ của cấp huyện về cấp tỉnh hay cấp xã; đồng thời, quy trình, thủ tục hành chính được thiết kế lại bảo đảm tinh gọn, tiết kiệm và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân, doanh nghiệp. Trên tinh thần đó, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025, tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho việc vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Điểm nổi bật của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 là việc phân định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm giữa chính quyền cấp tỉnh và chính quyền cấp xã, bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, đồng thời tăng cường phân cấp, trao quyền cho cơ sở. Về lâu dài, Luật này được xem là một trụ cột quan trọng trong xây dựng nền hành chính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển một nền quản trị quốc gia tinh gọn, phục vụ nhân dân, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Cùng với Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025, Chính phủ đã tham mưu trình Quốc hội thông qua 29 luật, 1 nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để thể chế hóa chủ trương của Đảng về tinh gọn tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính địa phương 2 cấp. Bộ Nội vụ và bộ, ngành tham mưu trình Chính phủ ban hành hơn 30 nghị định về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền; ban hành hơn 60 thông tư thuộc thẩm quyền để tiếp tục phân cấp, phân định thẩm quyền, hướng dẫn nội dung chuyển tiếp thủ tục hành chính, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận, thực thi được ngay kể từ ngày 1-7-2025.
Như vậy, quá trình hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp đã được triển khai đồng bộ, toàn diện và đạt nhiều kết quả nổi bật. Từ việc ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025, tiến hành sắp xếp đơn vị hành chính, đến việc ban hành hệ thống nghị định, thông tư thiết lập cơ chế phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp tỉnh và cấp xã đã tạo nên một khuôn khổ pháp lý thống nhất, khả thi, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Cải cách tổ chức và vận hành chính quyền địa phương 2 cấp không chỉ là sự sắp xếp hành chính thuần túy, mà là bước đột phá thể chế quan trọng, góp phần định hình mô hình quản trị quốc gia hiện đại, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn mới.
 
 
 
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Thị Thanh Trà kiểm tra hoạt động của Trung tâm Phục vụ hành chính công phường Cam Đường, tỉnh Lào Cai _Nguồn: chinhphu.vn
 
3- Kết quả hoàn thiện thể chế, chính sách đối với cán bộ, công chức

Thời gian qua, cơ quan chức năng đã tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục tập trung chỉ đạo, điều hành đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, trọng tâm là thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ, đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức nhằm hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về công tác quản lý cán bộ, công chức theo hướng đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế.
Tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã thông qua Luật Cán bộ, công chức năm 2025, có hiệu lực từ ngày 1-7-2025. Luật Cán bộ, công chức đã thể chế hóa chủ trương của Đảng về công tác cán bộ, đặc biệt là các nghị quyết đột phá, là “trụ cột” đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới mà Bộ Chính trị mới ban hành(6), thể hiện tư duy đổi mới, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho công tác quản lý cán bộ, công chức theo hướng năng động, minh bạch, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của người dân, doanh nghiệp.
Căn cứ điều khoản của Luật Cán bộ, công chức mới giao Chính phủ quy định chi tiết, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với cơ quan liên quan xây dựng nghị định hướng dẫn. Ngày 30-6-2025, Chính phủ đã ban hành 4 nghị định có hiệu lực đồng bộ với hiệu lực của Luật Cán bộ, công chức năm 2025, kể từ ngày 1-7-2025, bao gồm: 1- Nghị định số 170/2025/NĐ-CP, của Chính phủ, “Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức”; 2- Nghị định số 171/2025/NĐ-CP, của Chính phủ, “Quy định về đào tạo, bồi dưỡng công chức”; 3- Nghị định số 172/2025/NĐ-CP, của Chính phủ, “Quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức” (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 251/2025/NĐ-CP); 4- Nghị định số 173/2025/NĐ-CP, của Chính phủ, “Về hợp đồng thực hiện nhiệm vụ công chức”. Đồng thời, Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 179/2025/NĐ-CP, ngày 1/7/2025, “Quy định về mức hỗ trợ đối với người làm công tác chuyên trách về chuyển đổi số, an toàn thông tin mạng, an ninh mạng”; Nghị định số 231/2025/NĐ-CP, ngày 26-8-2025, “Quy định về việc tuyển chọn, sử dụng Tổng công trình sư, Kiến trúc sư trưởng trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; Nghị định số 249/2025/NĐ-CP, ngày 19-9-2025, “Quy định cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Việc ban hành Luật Cán bộ, công chức và nghị định hướng dẫn là bước cụ thể hóa quan trọng nhằm đưa chủ trương, định hướng lớn của Đảng về công tác cán bộ, chế độ công vụ, đặc biệt là thể chế hóa các nghị quyết đột phá của Bộ Chính trị, được khẳng định là “trụ cột” phát triển của đất nước, đi vào thực tiễn một cách hiệu quả, góp phần xây dựng nền công vụ Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, hoạt động vì sự phát triển của đất nước và phục vụ nhân dân.
Đến nay có thể khẳng định, quá trình tham mưu, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tinh gọn tổ chức bộ máy và xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp ở nước ta hiện nay đạt được kết quả quan trọng:
Thứ nhất, chủ trương, nghị quyết của Đảng, đã nhanh chóng được thể chế hóa thành chính sách, pháp luật, triển khai hiệu quả trong thực tiễn. Từ quan điểm chỉ đạo, công tác tham mưu, thể chế hóa đã giúp định hình nên nguyên tắc, phương pháp thực hiện vừa bảo đảm tính toàn diện, vừa có bước đi cụ thể, khẩn trương, nhưng không nóng vội; việc lựa chọn phương án tham mưu, thể chế hóa phải thực sự là phương án tối ưu trong những phương án tốt được đề ra. Theo đó, việc hợp nhất các bộ bảo đảm nguyên tắc hợp nhất, không trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, giảm tầng nấc trung gian, đổi mới về phân cấp, phân quyền; có cơ cấu tổ chức khung để thống nhất trong quá trình thực hiện. Việc sắp xếp đơn vị hành chính theo tư duy phát triển hướng biển, bảo đảm quy mô dân số, diện tích tối ưu...
Thứ hai, công tác tham mưu, thể chế hóa được thực hiện đồng bộ, không chỉ về tổ chức bộ máy, mà còn về con người trong tổ chức, vấn đề nhận thức, tâm lý của người dân trước thay đổi về đơn vị hành chính. Sự đồng bộ còn thể hiện ở lĩnh vực thể chế, pháp luật: khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn được phân tích, nhận diện và khắc phục với nỗ lực cao nhất.
Thứ ba, quá trình tham mưu, thể chế hóa luôn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp được tạo nền tảng pháp luật từ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, nghị quyết của Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, nghị định, thông tư. Mỗi cấp độ pháp luật là mỗi bước hiện thực hóa mô hình chính quyền địa phương 2 cấp bảo đảm sự vận hành hiệu quả của mô hình tổ chức mới này.
Thứ tư, quá trình tham mưu, thể chế hóa có tư duy đổi mới, bám sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu kiến tạo phát triển. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp chưa từng có tiền lệ trong chặng đường 80 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự là một cuộc đại cải cách to lớn, toàn diện, sâu sắc. Vì vậy, công tác tham mưu, thể chế hóa được tiếp cận với tư duy đổi mới sáng tạo, dựa trên thực tiễn, bám sát sự lãnh đạo của Đảng, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để tạo nên sự hội tụ của “ý Đảng, lòng dân”, khát vọng phát triển hùng cường, thịnh vượng của dân tộc.
4- Một số bài học kinh nghiệm rút ra
Việc xây dựng và triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp trên phạm vi cả nước trong bối cảnh áp lực về thời gian là một công việc to lớn, chưa có tiền lệ. Từ thực tiễn quá trình này, có thể đúc rút một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:
Một là, sự lãnh đạo thống nhất của Đảng có ý nghĩa quan trọng quyết định. Chủ trương, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và định hướng sâu sắc, toàn diện của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm mang ý nghĩa nguyên tắc, là kim chỉ nam định hướng cho quá trình tham mưu, thể chế hóa quy định về xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp. Vì vậy, việc nghiên cứu thấu đáo, đầy đủ chủ trương, nghị quyết, kết luận của Đảng là tiền đề quan trọng để công tác tham mưu, thể chế hóa bảo đảm chất lượng, hiệu quả.
Hai là, phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và hệ thống chính trị, cùng sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân. Xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp là một “cuộc cách mạng”, đòi hỏi quyết tâm cao, nỗ lực lớn, sự tham gia của nhiều cơ quan từ Trung ương đến địa phương.
Ba là, phương pháp, cách thức tham mưu chủ động, linh hoạt, sáng tạo, không cầu toàn, nhưng thận trọng, chắc chắn, khoa học, thấu đáo, biện chứng lịch sử, văn hóa; tổng hòa yếu tố bao trùm, toàn diện về: Tư duy, tầm vóc, triết lý phát triển, tâm lý xã hội, xu hướng thế giới, thực tiễn Việt Nam và đặt trong tổng thể mục tiêu, triển vọng phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển thịnh vượng, hùng cường của dân tộc.
Bốn là, trong tham mưu chiến lược cần quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm”, tất cả phương án xây dựng về hệ thống thể chế, chính sách, nhất là việc lớn hệ trọng, việc khó, phức tạp đều phải dựa vào nhân dân, lấy lợi ích lớn nhất là vì sự phát triển chung của đất nước, vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân để tham mưu tổ chức thực hiện.
Năm là, chủ động hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ, kịp thời. Thể chế hóa chủ trương phải “đi trước một bước”, tạo hành lang pháp lý rõ ràng để triển khai thuận lợi. Kinh nghiệm cho thấy cần chuẩn bị sớm dự thảo văn bản pháp quy, huy động sự tham gia đóng góp của ban, bộ, ngành, địa phương, chuyên gia và lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân, để bảo đảm chất lượng, sự đồng thuận và tính khả thi cao.
Sáu là, làm tốt công tác dự báo và thích ứng, phản ứng chính sách kịp thời, theo dõi sát sao tình hình, bảo đảm thông tin thông suốt giữa Trung ương và địa phương, chủ động dự liệu kịch bản, chuẩn bị sẵn phương án ứng phó, kịp thời điều chỉnh chính sách, trực tiếp hướng dẫn giải quyết ngay vướng mắc nảy sinh. Nhờ đó, nhiều vấn đề từ điều chỉnh khung số lượng cấp phó, chế độ tiền lương, phụ cấp cho cán bộ sau sắp xếp, đến việc giải đáp quy định về thủ tục hành chính...  được xử lý nhanh chóng.
Bảy là, phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận, huy động sự tham gia của người dân và hệ thống chính trị ở cơ sở. Trong quá trình xây dựng đề án sáp nhập cấp tỉnh và cấp xã, Cơ quan chức năng đã hướng dẫn địa phương tổ chức hàng nghìn cuộc họp lấy ý kiến cử tri, nhân dân. Nhờ tôn trọng ý kiến người dân, lắng nghe và điều chỉnh phương án phù hợp, chủ trương cải cách nhận được sự ủng hộ cao (trên 96%), giảm thiểu phản ứng tiêu cực. Ở đây nổi bật lên vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền, vận động của Đảng và hệ thống chính trị, nhất là khi sáp nhập đơn vị hành chính có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người dân và cán bộ địa phương.
Tám là, phải xác định rõ mục tiêu, tầm nhìn chiến lược, vì sự nghiệp chung, vì lợi ích chung của đất nước. Đối với nhiệm vụ lớn, quan trọng, mới, khó, phức tạp, cơ quan tham mưu cần có quyết tâm chính trị cao, tập trung lãnh đạo, định hướng cụ thể nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ và cách làm. Quyết tâm và hành động chỉ thực sự hiệu quả khi được đặt trong một tầm nhìn chiến lược, hướng tới mục tiêu phát triển đất nước bền vững, lâu dài, vượt ra khỏi tầm nhìn theo ngành, theo lĩnh vực mà hướng đến tầm nhìn chiến lược, vì những giá trị chung của Tổ quốc, nhân dân hướng đến.
Thành công bước đầu của công cuộc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy tạo nên một cột mốc lịch sử, tạo lập một mô hình chính quyền mới phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Bài học kinh nghiệm sâu sắc từ “cuộc cách mạng” này là hành trang quý giá để chúng ta tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự tin tưởng, đồng hành của cán bộ, đảng viên, nhân dân cả nước, góp phần hiện thực hóa khát vọng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển hùng cường, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam./.
-----------------------
(1) Tiêu biểu là: Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 24-12-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, “về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã”; Kết luận số 121-KL/TW, ngày 24-1-2025, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, “về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2027 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả””; Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12-4-2025, của Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII;...
(2) bao gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
(3) như: Nghị quyết số 176/2025/QH15, ngày 18-2-2025, của Quốc hội, “Về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”; Nghị quyết số 177/2025/QH15, ngày 18-2-2025, của Quốc hội, “Về cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”; Nghị quyết số 178/2025/QH15, ngày 18-2-2025, của Quốc hội, “Về việc tổ chức các cơ quan của Quốc hội”; Nghị quyết số 179/2025/QH15, ngày 18-2-2025, của Quốc hội, “Về số thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV”
(4) Nghị quyết số 190/2025/QH15, ngày 19-2-2025, của Quốc hội, “Quy định về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước”
(5) Riêng Bộ Dân tộc và Tôn giáo trình để ban hành 2 nghị định
(6) bao gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị khóa XIII, “về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, của Bộ Chính trị khóa XIII, “về hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, của Bộ Chính trị khóa XIII, “về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” và Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, của Bộ Chính trị, “về phát triển kinh tế tư nhân”.
 

Tác giả bài viết: Đồng chí PHẠM THỊ THANH TRÀ - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ (Nguồn: Tạp chí Cộng sản)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Thông báo - mời họp

07 TB/DU

Thông báo giới thiệu chức danh và chữ ký đồng chí Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy

02/06/2025

01-KH/ĐU

Kế hoạch thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2025

09/03/2025

02 MH/ĐU

Hội nghị BTV, BCH Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh

26/02/2025

1135-QĐ/TU

Quyết định Chỉ định Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh, nhiệm kỳ 2020 - 2025

04/03/2025

Lượt truy cập
  • Đang truy cập24
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm23
  • Hôm nay5,871
  • Tháng hiện tại180,389
  • Tổng lượt truy cập18,467,729
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây