Sau 23 ngày làm việc (đợt 1 từ ngày 22/5-10/6/2023; đợt 2 từ ngày 19/6-24/6/2023) với tinh thần đổi mới, đoàn kết, dân chủ, trí tuệ, khẩn trương và trách nhiệm cao, kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra. Ban Biên tập Trang Thông tin điện tử Đảng bộ Khối xin đăng bản Báo cáo tóm tắt kết quả kỳ họp thứ năm, quốc hội khóa XV do Đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Hà Tĩnh tổng hợp để các đồng chí theo dõi.
Các đại biểu Quốc hội đoàn Hà Tĩnh biểu quyết thông qua Nghị quyết Kỳ họp thứ 5 (ảnh Báo Hà Tĩnh)
Theo báo cáo, Quốc hội thông qua 08 luật, 17 nghị quyết, cho ý kiến lần 2 đối với 01 dự án luật, cho ý kiến lần đầu đối với 08 dự án luật khác; giám sát tối cao chuyên đề “việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng”; tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn; xem xét, quyết định các vấn đề về nhân sự, kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước; xem xét báo cáo về tổng hợp kiến nghị của cử tri và Nhân dân, báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, cùng một số nội dung quan trọng khác.
Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tinh thần trách nhiệm cao, Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Tĩnh do đồng chí Hoàng Trung Dũng - Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh cùng các vị đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia có hiệu quả các nội dung chương trình nghị sự, góp phần quan trọng vào thành công chung của kỳ họp.
I. CÔNG TÁC LẬP PHÁP
1. Các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua
1.1. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) đã bổ sung, hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng dễ bị tổn thương; bảo vệ thông tin của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng; hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; một số giao dịch đặc thù; tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
1.2. Luật Đấu thầu (sửa đổi) đã chỉnh sửa quy định phạm vi, đối tượng áp dụng luật, quy trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; quy trình, thủ tục, giảm thời gian đấu thầu, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh áp dụng đấu thầu qua mạng; sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới về đấu thầu mua sắm thuốc, hóa chất, vật tư y tế để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đấu thầu; quy định cụ thể về các hành vi bị cấm, xử lý vi phạm và giải quyết kiến nghị trong hoạt động đấu thầu; quy định rõ, minh bạch, cụ thể các trường hợp chỉ định thầu và đấu thầu trong trường hợp đặc biệt…
1.3. Luật Giá (sửa đổi) tập trung vào 09 nhóm chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá; quy định Danh mục, nguyên tắc xác định hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá; cơ chế xử lý tình huống hàng hóa, dịch vụ cần bình ổn nhưng chưa có trong danh mục để áp dụng trong các trường hợp cấp bách…
1.4. Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) quy định chi tiết cách thức xác định giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu; bổ sung quy định về điều kiện đảm bảo giá trị pháp lý khi chuyển đổi từ bản giấy sang thông điệp dữ liệu và ngược lại; quy định về chứng thư điện tử; quy định đối với các hình thức xác nhận khác bằng phương tiện điện tử mà không phải chữ ký điện tử; các quy định về quản lý dữ liệu, cơ sở dữ liệu, dữ liệu mở, các quy định đối với cơ quan nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động giao dịch điện tử; đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số...
1.5. Luật Hợp tác xã (sửa đổi) tập trung thể chế hóa nội dung 08 chính sách tại Nghị quyết số 20-NQ/TW; bổ sung quy định về đăng ký tổ hợp tác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ hợp tác phát triển; các quy định liên quan đến cá nhân là nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thành lập, trở thành thành viên của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; các quy định về tổ chức quản trị, tài sản, tài chính, kiểm toán của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…
1.6. Luật Phòng thủ dân sự được ban hành với 06 nhóm chính sách liên quan đến việc đánh giá mức độ rủi ro của thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh trong hoạt động phòng thủ dân sự; phân công trong quản lý nhà nước và phân cấp trong tổ chức hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; quy định các biện pháp bảo vệ người dân trước thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh và hỗ trợ người dân bị thiệt hại…
1.7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân được ban hành tập trung 03 chính sách liên quan đến tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các quy định của Đảng, Nhà nước và yêu cầu thực tiễn; thăng cấp bậc hàm cấp tướng trước thời hạn đối với sĩ quan công an nhân dân có thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu và công tác; (bổ sung, điều chỉnh một số chức vụ, chức danh của sĩ quan công an nhân dân có cấp bậc hàm cao nhất.
1.8. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam ban hành nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế và phát triển du lịch, dịch vụ, tạo sự thông thoáng về thủ tục, chính sách mở rộng thị thực điện tử, kéo dài thời hạn thị thực cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, tạo điều kiện thúc đẩy thu hút du lịch, đầu tư, hợp tác kinh doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện dịch vụ công.
1.9. Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn (sửa đổi) tập trung vào các căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm, hệ quả của việc lấy phiếu tín nhiệm nhằm cụ thể hóa Quy định số 96-QĐ/TW của Bộ Chính trị và điều chỉnh một số nội dung về quy trình, thủ tục lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
1.10. Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh được ban hành để thay thế Nghị quyết số 54/2017/QH14 nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho Thành phố Hồ Chí Minh khơi thông nguồn lực, tạo đà phát triển, khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của Thành phố để phát triển tương xứng với vị trí đầu tàu về kinh tế - xã hội của vùng Đông Nam Bộ và cả nước.
1.11. Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 được xây dựng theo hướng mở, cho phép bổ sung các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trong quá trình chuẩn bị thấy cần thiết, cấp bách và được chuẩn bị tốt để kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
2. Các dự án luật được Quốc hội cho ý kiến
2.1. Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) tiếp tục được hoàn thiện trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và ý kiến góp ý của Nhân dân. Quốc hội đã tập trung thảo luận về về quy hoạch sử dụng đất; tài chính đất đai, giá đất; thu hồi đất, nhất là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; phát triển quỹ đất; giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất, không đấu giá quyền sử dụng đất, không đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất, thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất; các trường hợp cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần và trả tiền thuê đất hằng năm; mở rộng đối tượng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, trong đó có đất trồng lúa; cấp Giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất; đất quốc phòng, an ninh; đất sử dụng cho khu kinh tế....
2.2. Dự án Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) tập trung thảo luận về phạm vi điều chỉnh; sự đồng bộ, thống nhất với các dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Nhà ở (sửa đổi) và các luật khác có liên quan đang được Quốc hội xem xét; các loại bất động sản đưa vào kinh doanh; kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn và hình thành trong tương lai; chuyển nhượng dự án bất động sản; sàn giao dịch bất động sản; môi giới bất động sản; hệ thống thông tin, dữ liệu về nhà ở và thị trường bất động sản; điều tiết thị trường bất động sản;…
2.3. Dự án Luật Nhà ở (sửa đổi) tập trung thảo luận những nội dung về: chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở; hình thức sử dụng đất được đầu tư xây dựng dự án nhà ở thương mại; bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội; tiêu chuẩn nhà ở xã hội, nhà tái định cư; nhà lưu trú công nhân; quỹ đất phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang; việc quản lý, vận hành và cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư;…
2.4. Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) tập trung thảo luận về tên gọi và phạm vi điều chỉnh của Luật; bảo vệ tài nguyên nước và phục hồi nguồn nước; điều hòa, phân phối và khai thác, sử dụng tài nguyên nước; công cụ kinh tế, chính sách và nguồn lực cho tài nguyên nước; trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước; quy hoạch chung về khai thác, sử dụng tài nguyên nước; việc lấy ý kiến cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước; quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa; gây mưa nhân tạo; đăng ký cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước; trách nhiệm quản lý tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước;…
2.5. Dự án Luật Viễn thông (sửa đổi) tập trung thảo luận về phạm vi, đối tượng điều chỉnh, nội hàm của các hoạt động viễn thông; chính sách, điều kiện kinh doanh, quản lý đối với các dịch vụ mới; tính thống nhất, đồng bộ của dự án Luật với pháp luật có liên quan, tính tương thích, phù hợp với các điều ước quốc tế; quyền tham gia hoạt động viễn thông, quyền được đảm bảo an toàn viễn thông; sự cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động viễn thông, nghiên cứu triển khai các hoạt động viễn thông; vấn đề sở hữu trong kinh doanh dịch vụ viễn thông, cấp giấy phép viễn thông, thẩm quyền cấp phép, thời hạn cấp phép, gia hạn giấy phép viễn thông...
2.6. Dự án Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự tập trung thảo luận về tên gọi và phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật; chính sách của Nhà nước về quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; phân loại, phân nhóm công trình quốc phòng và khu quân sự; sử dụng, bảo quản, bảo trì công trình quốc phòng và khu quân sự; chuyển đổi mục đích sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự; phá dỡ, di dời công trình quốc phòng và khu quân sự; xác định phạm vi bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; chế độ bảo vệ đối với khu vực cấm, khu vực bảo vệ, vành đai an toàn công trình quốc phòng và khu quân sự; vành đai an toàn kho đạn dược, hành lang an toàn kỹ thuật hệ thống anten quân sự...
2.7. Dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi) tập trung về tên gọi của dự thảo Luật; đối tượng áp dụng; căn cước điện tử; nguyên tắc quản lý căn cước, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước; trách nhiệm của cơ quan quản lý căn cước; quyền và nghĩa vụ về căn cước, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước; người được cấp thẻ căn cước; việc cấp thẻ căn cước cho trẻ em dưới 14 tuổi; thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; các chủ thể được khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; các thông tin trên thẻ căn cước công dân; nội dung thể hiện trên thẻ căn cước; giá trị sử dụng của thẻ căn cước; trình tự, thủ tục cấp thẻ căn cước; thu hồi, tạm giữ thẻ căn cước…
2.8. Dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) tập trung thảo luận nhiều về ngân hàng chính sách; tỷ lệ sở hữu cổ phần; giới hạn cấp tín dụng; tổ chức, quản trị, điều hành và hoạt động của các tổ chức tín dụng; tài chính, hạch toán, báo cáo; việc can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt tổ chức tín dụng; xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng…
2.9. Dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự tại cơ sở tập trung thảo luận về sự cần thiết ban hành Luật; tên gọi, phạm vi điều chỉnh của Luật; sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng; tính hợp Hiến, tính thống nhất với hệ thống pháp luật; tính khả thi của dự thảo Luật; vị trí, chức năng của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở trong việc tham gia, hỗ trợ Công an chính quy thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục để quyết định người tham gia lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; các chế độ, chính sách và việc bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở...
II. VỀ QUYẾT ĐỊNH CÁC VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG
1. Quốc hội đã xem xét, quyết định việc miễn nhiệm chức vụ Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội, cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội khóa XV đối với ông Nguyễn Phú Cường; phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Trần Hồng Hà; bầu Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội khóa XV đối với ông Lê Quang Mạnh; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Đặng Quốc Khánh; phê chuẩn đề nghị việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đối với ông Nguyễn Hồng Nam. Công tác nhân sự được thực hiện thận trọng, kịp thời, bảo đảm thủ tục đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2. Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị quyết về phân bổ vốn Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; phân bổ, điều chỉnh kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 và phân bổ kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương năm 2023 của các Chương trình mục tiêu quốc gia. Đây là Nghị quyết có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ, dự án sử dụng vốn đầu tư công, vốn của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đã được chuẩn bị đầy đủ thủ tục, đủ điều kiện để giao và một số dự án cấp bách có yêu cầu bảo đảm công tác đối ngoại, an sinh xã hội... Do vậy, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết với một số nội dung chính, như sau: (i) Phân bổ số vốn còn lại của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương để thực hiện các dự án đã đủ thủ tục đầu tư theo quy định; (ii) Giao Chính phủ giao 88.359,227 tỷ đồng kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025 cho các nhiệm vụ, dự án đã đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại Điều 52 Luật Đầu tư công và nguyên tắc, tiêu chí bố trí vốn quy định tại Luật Đầu tư công, Nghị quyết số 29/2021/QH15; (iii) Phân bổ số vốn kế hoạch Đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 còn lại của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; phân bổ số vốn ngân sách trung ương năm 2023 còn lại của các Chương trình mục tiêu quốc gia để các bộ, cơ quan trung ương và địa phương triển khai thực hiện; (iv) Điều chỉnh tăng/giảm tương ứng đối với một số dự án cụ thể theo quy định của Luật Đầu tư công...
3. Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2021 (trong đó, tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 2.387.906 tỷ đồng; tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 2.484.439 tỷ đồng; bội chi ngân sách nhà nước là 214.053 tỷ đồng, bằng 2,52% tổng sản phẩm trong nước (GDP)). Quốc hội yêu cầu Chính phủ tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính; quản lý chặt chẽ các khoản chi chuyển nguồn; hủy bỏ, thu hồi về ngân sách nhà nước các khoản chuyển nguồn không đúng quy định; xử lý dứt điểm những trường hợp tạm ứng quá thời hạn quy định kéo dài nhiều năm; tiếp tục kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước, nợ công để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô; chỉ đạo tiếp tục rà soát, hoàn thiện hồ sơ xử lý khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đến hết ngày 30/6/2023 đảm bảo đúng đối tượng, đúng thẩm quyền…
4. Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đường giao thông từ Quốc lộ 27C đến đường tỉnh ĐT.656 tỉnh Khánh Hòa - kết nối với tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Ninh Thuận nhằm cụ thể hóa mục tiêu phát triển tỉnh Khánh Hòa theo Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/01/2022 của Bộ Chính trị; tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội 02 huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh nói riêng và tỉnh Khánh Hòa nói chung, tăng khả năng kết nối giao thông, vận chuyển hàng hóa liên vùng với các tỉnh Ninh Thuận và Lâm Đồng, tăng cường quốc phòng, an ninh trong khu vực... Trong đó, Quốc hội đã đồng ý chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất rừng và chuyển mục đích sử dụng rừng khoảng 75,58 ha (trong đó: đất rừng, rừng phòng hộ đầu nguồn khoảng 27,07 ha; đất rừng, rừng đặc dụng khoảng 32,88 ha; và đất rừng, rừng sản xuất khoảng 15,63 ha) để thực hiện Dự án với tổng mức vốn đầu tư sơ bộ khoảng 1.930 tỷ đồng; thời gian thực hiện dự án từ năm 2023 đến hết năm 2027...
5. Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị quyết kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV với nhiều nội dung quan trọng, trong đó, đã quyết nghị: (i) Chấp thuận chủ trương đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam giai đoạn 2021-2023 tương ứng với số lợi nhuận còn lại thực nộp ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2023 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, tối đa là 17.100 tỷ đồng; (ii) Thực hiện chính sách giảm 2% thuế giá trị gia tăng quy định tại tiết a, điểm 1.1, khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023; (iii) Điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết số 93/2019/QH14 về chủ trương đầu tư Dự án Hồ chứa nước Ka Pét, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận; trong đó, quy mô diện tích sử dụng đất của Dự án là 697,73ha; thời gian thực hiện Dự án từ năm 2019 đến hết năm 2025 với tổng mức đầu tư và tổng vốn đầu tư của dự án là 874,089 tỷ đồng.
III. GIÁM SÁT TỐI CAO
1. Sau khi xem xét các báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2022; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2023, Quốc hội đánh giá cao sự chỉ đạo và thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; biểu dương tinh thần nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, các tầng lớp Nhân dân trong việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, các cân đối lớn được bảo đảm, thương mại, dịch vụ có xu hướng tăng; an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và đời sống người dân được quan tâm; lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin tuyên truyền tiếp tục được đẩy mạnh; quốc phòng, an ninh cơ bản được bảo đảm; công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng và tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả quan trọng.... Quốc hội cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là tình trạng đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ dẫn đến sự trì trệ trong giải quyết công việc, gây bức xúc trong xã hội…
Quốc hội đã quyết nghị nhiều định hướng, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để Chính phủ, các cấp, các ngành tiếp tục quyết liệt triển khai nhằm hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã được đề ra; đồng thời, yêu cầu Chính phủ, các cơ quan triển khai thực hiện và có các giải pháp cụ thể, phù hợp, khả khi để giải quyết các tồn tại, hạn chế nhằm hoàn thành cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu theo các nghị quyết của Quốc hội.
2. Trong thời gian 2,5 ngày, Quốc hội đã tiến hành chất vấn 03 Bộ trưởng và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc về các lĩnh vực: lao động, thương binh và xã hội, khoa học và công nghệ, giao thông vận tải, dân tộc. Các vấn đề được Quốc hội lựa chọn là cần thiết, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, mong muốn của Nhân dân và cử tri.
Phiên chất vấn và trả lời chất vấn diễn ra nghiêm túc, dân chủ, trách nhiệm, có tính xây dựng cao. Các vị đại biểu Quốc hội đã nêu câu hỏi sát thực tế diễn biến của đời sống và nguyện vọng của cử tri, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với cử tri và Nhân dân, với nội dung ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng, ít trùng lặp, có đối thoại, tranh luận thẳng thắn, mang tính xây dựng, sử dụng tối đa hiệu quả thời gian để chất vấn và làm rõ vấn đề mà cử tri và Nhân dân quan tâm. Các Bộ trưởng: Lao động - Thương binh và Xã hội, Khoa học và Công nghệ, Giao thông vận tải và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đều thể hiện bản lĩnh, nắm chắc thực trạng của ngành, lĩnh vực mình phụ trách, thẳng thắn, không vòng vo, né tránh nhiều vấn đề khó, phức tạp. Với ý thức trách nhiệm cao, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Trưởng ngành khác đã tham gia giải trình nghiêm túc, giúp làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm. Cuối phiên chất vấn, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã thay mặt Chính phủ báo cáo làm rõ những vấn đề thuộc trách nhiệm chung của Chính phủ và trực tiếp trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội.
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, trong đó, yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các vị Bộ trưởng, Trưởng ngành tập trung thực hiện những giải pháp, cam kết, sớm khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực được chất vấn, thực hiện hiệu quả các mục tiêu, chương trình, chiến lược trong các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng, các quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân và cử tri cả nước. Đây cũng là cơ sở để Quốc hội tiến hành giám sát lại và xem xét lấy phiếu tín nhiệm tại Kỳ họp thứ 6.
3. Trên cơ sở kết quả giám sát chuyên đề, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết giám sát chuyên đề về việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng. Quốc hội yêu cầu sớm hoàn thiện thể chế liên quan đến lĩnh vực y tế cơ sở, y tế dự phòng, phòng thủ dân sự và tình trạng khẩn cấp; khẩn trương rà soát, tổng hợp, phân loại để xử lý các tồn đọng, vướng mắc trong công tác quản lý, sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; tăng cường khả năng cung ứng dịch vụ y tế cơ sở, y tế dự phòng, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế, nhất là trong sản xuất vắc-xin và thuốc điều trị trong nước; có giải pháp để hoàn thành mục tiêu mọi người dân đều được theo dõi, quản lý sức khoẻ toàn diện theo lộ trình được xác định tại Nghị quyết số 20-NQ/TW; có lộ trình tăng mức đóng bảo hiểm y tế, đồng thời mở rộng danh mục dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, danh mục thuốc, vật tư y tế ở y tế cơ sở do quỹ bảo hiểm y tế chi trả; giải quyết triệt để những vướng mắc trong việc thanh toán, quyết toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế....
4. Quốc hội đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2024, Nghị quyết về thành lập Đoàn giám sát chuyên đề năm 2024 “Việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm 2023” và “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023” . Đồng thời, giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức giám sát trong năm 2024 đối với 02 chuyên đề: “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập giai đoạn 2018 - 2023” và “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông từ năm 2009 đến hết năm 2023”.
5. Sau khi xem xét báo cáo về kết quả thực hiện công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2022, Quốc hội đánh giá cao sự chủ động, quyết tâm của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương về tổ chức thực hiện Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2022 trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức. Đồng thời đề nghị khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về định mức, tiêu chuẩn, đơn giá còn thiếu, chưa phù hợp với thực tiễn; tập trung hoàn thành các chuẩn mực kế toán, phương pháp thống kê, thông tin về tài sản kết cấu hạ tầng, tới năm 2025 cơ bản hoàn thành các chuẩn mực kế toán và công khai Báo cáo tài chính nhà nước; triển khai kế hoạch để hoàn thành các nhiệm vụ và giải pháp quy định tại Nghị quyết số 74/2022/QH15 về đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí...
6. Về Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân gửi đến kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV; Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
Quốc hội cho rằng, ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân cả nước đã được Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kịp thời tổng hợp đầy đủ gửi đến Quốc hội.
Tại kỳ họp này, lần đầu tiên Quốc hội tiến hành thảo luận riêng về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 4, qua đó, tiếp tục thể hiện tinh thần đổi mới về công tác dân nguyện của Quốc hội, nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội trong việc giải quyết kiến nghị của cử tri, Nhân dân. Quốc hội đánh giá cao công tác giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ghi nhận sự tích cực, kịp thời của Chính phủ, các Bộ, ngành trong việc trả lời, giải quyết kiến nghị của cử tri, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân cũng như nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý của nhà nước, góp phần tháo gỡ có hiệu quả nhiều khó khăn, vướng mắc từ cơ sở, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, ổn định tình hình trật tự, an toàn xã xã hội, cải thiện đời sống của Nhân dân, tạo niềm tin của cử tri và Nhân dân cả nước.
Quốc hội đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành và các cơ quan có liên quan trả lời, giải quyết các kiến nghị tại Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân gửi đến Kỳ họp thứ 5 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tập trung khắc phục các hạn chế, thực hiện các kiến nghị đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu tại Báo cáo về kết quả giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 4; khẩn trương rà soát, giải quyết dứt điểm một số kiến nghị cử tri đã kiến nghị nhiều lần, các vấn đề nổi cộm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân.
IV. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐBQH TỈNH TẠI KỲ HỌP
Tại kỳ họp thứ 5, các vị ĐBQH Đoàn Hà Tĩnh tham gia đầy đủ các phiên họp, các hoạt động của các cơ quan Quốc hội và của Đoàn tổ chức. Tại 26 buổi thảo luận Hội trường, 10 buổi thảo luận Tổ, 03 buổi thảo luận Đoàn đã có 27 lượt ý kiến của các vị ĐBQH trong Đoàn phát biểu, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng; kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội; tham gia ý kiến góp ý các dự án luật và nghị quyết, các nội dung đều được chủ toạ kỳ họp đánh giá cao.
Đồng chí Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh được phân công làm Tổ trưởng Tổ thảo luận gồm ĐBQH các tỉnh: Cao Bằng, Đồng Nai, Hà Tĩnh; đồng chí đã điều hành khoa học, hiệu quả, tổng hợp được nhiều ý kiến thảo luận của các ĐBQH.
1. Về công tác lập pháp và ban hành nghị quyết: Các đại biểu chủ động, tích cực tham gia phát biểu tại phiên thảo luận tổ và hội trường, gửi văn bản góp ý tất cả các dự án luật và nghị quyết, nhất là: Luật Đất đai (sửa đổi); Luật Hợp tác xã (sửa đổi); Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi); Luật Phòng thủ dân sự; Luật Nhà ở (sửa đổi); Luật Tài nguyên nước (sửa đổi); Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Luật Căn cước công dân (sửa đổi); Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi); Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở... Các nội dung được các đại biểu tham gia góp ý chuyên sâu, mang tính xây dựng cao, được chủ toạ kỳ họp đánh giá cao và được Ban soạn thảo nghiên cứu tiếp thu.
2. Tại phiên thảo luận về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước: Đại biểu Đoàn Hà Tĩnh đã tham luận thẳng thắn, đánh giá những ưu điểm, kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ về kết quả kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2022 và những tháng đầu năm 2023. Từ đó, đại biểu Đoàn Hà Tĩnh đề nghị đối với sáp nhập đơn vị hành chính cần có các tiêu chí linh hoạt hơn với mục tiêu hướng đến phục vụ tốt hơn cho người dân, tránh lãng phí; có chính sách thu hút các sinh viên giỏi vào công tác trong hệ thống chính trị; quan tâm đúng mức chế độ, chính sách cho cán bộ cơ sở; khuyến khích địa phương chủ động bố trí ngân sách hỗ trợ cho cán bộ cơ sở; có chiến lược, chính sách dài hạn trong hợp tác quốc tế, hỗ trợ nước bạn Lào và Campuchia, nhất là đào tạo nhân lực; cần có sự tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện tự chủ đại học, kịp thời quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội.
3. Về chất vấn và trả lời chất vấn: Các đại biểu Đoàn Hà Tĩnh đề xuất các nội dung được nhiều cử tri quan tâm gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổng hợp lựa chọn để chất vấn. Đồng thời, đã chuẩn bị câu hỏi chất vấn gửi đến người được chất vấn trên lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội; dân tộc; khoa học và công nghệ; giao thông vận tải.
4. Về hoạt động bên lề kỳ họp: Ngoài chương trình của kỳ họp, Đoàn đã tổ chức các cuộc hội nghị tham vấn chính sách, pháp luật liên quan tới kỳ họp; tham gia lễ tổng kết và trao giải báo chí toàn quốc về Quốc hội và Hội đồng nhân dân lần thứ nhất năm 2023; tham gia chương trình gặp mặt, kết nối thanh niên, sinh viên tiêu biểu Hà Tĩnh đang công tác, học tập trên địa bàn thành phố Hà Nội; tham gia làm việc với một số bộ, ngành, đơn vị.
Thể hiện tại Nghị quyết Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.